II. Thân bài:
1. Khổ thơ đầu thể hiện cảm xúc đầu tiên của chinh phụ. Chàng và thiếp bị cách ngăn ở hai phía chân Trời:
“Chàng thì đi... trải ngàn núi xanh "
- Bi kịch thời loạn lạc: chàng phải dấn thân vào cõi sa trường xa xôi, đầy "mưa gió" gian khổ. Nàng chinh phụ sống trong cảnh cô đơn lẻ bóng, nơi "buồng cũ chiếu chăn". Hai câu 1, 2 đối nhau gợi tả bi kịch chua xót chia li ấy.
- Người vợ “đoái trông” tìm bóng người chồng thương yêu, nhưng bị ngăn cách bởi "mây biếc" và “ngàn núi xanh”. Núi và mây như đang dựng thành, đang che lấp, đang “cách ngăn ” đôi lứa. Hình tượng thơ có màu sắc đẹp, gợi tả một không gian cách biệt, bao la, mịt mù... (câu 3, 4).
2. Khổ thơ thứ hai, nỗi buồn chia li được khắc sâu, được tô đậm, dâng lên tràn ngập tâm hồn kẻ ở người đi. Biết bao trông ngóng nhớ thương:
“Chốn Hàm Dương........ mấy trùng”
- Các địa danh các vùng địa lí Hàm Dương, Tiêu Tương cách xa nhau hàng nghìn dặm mang tính ước lệ tượng trưng cho sự xa xôi cách trở của chàng và thiếp ở hai phía chân Trời. Các chữ "còn ngoảnh lại", "hãy trông sang" gợi ta một Trời thương nhớ mênh mông, bao la, mù mịt.
- Chốn..., bến..., khói..., cây... cũng mịt mờ xa cách "mấy trùng". Điệp ngữ "cách" và 2 chữ "mấy trùng " đã làm nổi bật thêm bi kịch chia li, xa cách của nàng chinh phụ và người chồng giữa thời chiến tranh loạn lạc. Tác giả đã lấy không gian nghệ thuật bao la để thể hiện tâm trạng chia li đau khổ của chàng và thiếp, "kẻ trong cánh cửa, người ngoài chân mây”.
3. Khổ thơ thứ ba cực tả nỗi ngóng trông, thương nhớ, đau buồn lẻ loi cô đơn của nàng chinh phụ:
"Cùng trông lại... ai sầu hơn ai?"
- “Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy" đó là bi kịch của cảnh ngộ, bi kịch của thương nhớ trong xa cách biệt li.
- Rồi chi thấy màu "xanh xanh" của ngàn dâu, rồi chỉ thấy "ngàn dâu xanh ngắt một màu", một màu xanh rợn ngợp choán hết cả tâm hồn.
- Câu hỏi tu từ cuối đoạn, chinh phụ đau buồn thương nhớ, tâm trạng ấy biết ngỏ cùng ai. Câu hỏi tu từ chứa đầy bi kịch như một tiếng thở dài, một giọt khóc:
"Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?"
- Cách sử dụng điệp ngữ, tương phản, lối diễn tả liên hoàn trùng điệp gợi tả nỗi trông mong, đợi chờ, thương nhớ dằng dặc, triền miên; nhạc của thơ cũng là nhạc sầu của "lòng chàng ý thiếp"
III. Kết bài:
- Đoạn thơ đã nói lên một tâm trạng rất điển hình thời chiến tranh loạn lạc: li biệt, xa cách nghìn trùng, thương nhớ, đau buồn. Một sự cảm thông san sẻ. Đó là giá trị nhân đạo.
- Phép đối, điệp ngữ, biện pháp liên hoàn... đã làm cho đoạn thơ giàu âm điệu, nhạc điệu cực tả nỗi buồn da diết triền miên dâng lên vô tận trong tâm hồn chinh phụ. Ngoại cảnh với bao hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng có giá trị biểu đạt tâm cảnh, tâm trạng một cách tinh tế sâu sắc và gợi cảm.
- Đoạn thơ thể hiện một bút pháp nghệ thuật điêu luyện của Đoàn Thị Điểm về thơ song thất lục bát: nhạc điệu du dương, ngôn từ tinh luyện gợi cảm, hình tượng mĩ lệ, lối miêu tả tâm trạng tinh tế, sâu sắc...