Trong đó, Đỗ Phủ (712 - 770) là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất, được tôn vinh là "Thi thánh". Ông là nhà thơ giàu lòng yêu nước, thương dân, lo đời, ghét cường quyền bạo ngược. Tính hiện thực và tinh thần nhân đạo dào dạt trong hơn 1.400 bài thơ ông để lại, phản ánh tâm hồn cao đẹp của một “nhà thơ dân đen”. Cuộc đời của Đỗ Phủ trải qua nhiều bất hạnh: công danh lận đận, con chết, lưu lạc tha hương, càng cuối đời càng nghèo đói, cơm không đủ ăn, ốm đau không thuốc thang cơm cháo, nằm chết trên một chiếc thuyền rách nát nơi quê người.
"Bài ca nhà tranh bị gió thu phá " được xếp vào trong số 100 bài thơ hay nhất của Đỗ Phủ. Ông viết bài thơ này vào những năm cuối đời mình. Năm 760 (hay 761) được bạn bè giúp đỡ, Đỗ Phủ đã dựng được một mái nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoa ở phía tây Thành Đô. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ngôi nhà bị mưa bão phá nát. Năm đó, loạn An - Sử vẫn đang diễn ra khốc liệt. Bài thơ gồm có 23 câu, phần lớn là câu thất ngôn, có vài câu dài đến trên dưới chục chữ, vừa có vần trắc vừa có vần bằng. Chữ "ca" trong bài thơ "Mao ốc vị thu phong sở phá ca” là một loại thơ cổ (cổ phong) có nguồn gốc sâu xa với một điệu dân ca cổ. Nhiều nhà thơ đời Đường đều có viết thể "ca" này: "Thu phố ca" (Lí Bạch), "Tltiên Dục phiêu Đồ ca" (Đỗ Phủ), "Trường hận ca " (Bạch Cư Dị), v.v...
Muốn cảm nhận “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” này, có lẽ nên đọc lại một trong hai bài thơ sau đây của Đỗ Phủ, bài thơ “Nhớ em”. Từ đó, ta mới có thêm căn cứ để phân tích:
‘‘Chạy loạn sang châu Tế
Nghe em đói rét hoài
Đường thăm còn vướng giặc
Thư gửi biết nhờ ai?
Lủi trôn khi lo vẩn
Buồn phiền lúc ốm dai
Phó cho dòng nước chảy
Nghìn vạn mối sầu dài! ”
(Nhượng Tống dịch)
Bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá ” gồm có 4 phần: 5 câu đầu nói bão tố phá nát ngôi nhà tranh, 5 câu nối tiếp nói bọn trẻ con cướp tranh; 8 câu tiếp theo tả cảnh mưa tầm tã nhà bị dột, cha con ngồi trong mưa rét; 5 câu cuối thể hiện niềm mơ ước của nhà thơ.
Khổ thơ đầu như một ghi chép ngắn về trận thu phong. Đó là một trận bão tố, hoặc là một cơn lốc vào tháng 8 "gió thét già". Ba lớp tranh ngôi nhà của Đỗ Phủ bị "cuộn mất" bay tứ tung khắp mọi nơi. Có tấm tranh bay rải khắp bờ sông. Có tấm tranh "treo tót ngọn rừng xa. Có mảnh tranh bị phá nát rơi xuống mương nước." Chữ "tranh" (mao) được nhắc lại 2, 3 lần, lối viết liệt kê đã tái hiện lại trận cuồng phong lần lượt bóc đi từng tấm tranh, nhà thơ ngơ ngác nhìn, bất lực. Cả 5 câu thơ đều được gieo vần bằng: “hào - mao - giao - sao - ao ", đó là những vần có âm vang diễn tả âm điệu thơ như tiếng khóc, tiếng thở than, về vần thơ, Khương Hữu Dụng thể hiện đúng dụng ý nghệ thuật của Đỗ Phủ trong nguyên tác: "gịà - ta - xa - sa".
Năm câu thơ tiếp theo cho thấy thời loạn, đạo lí suy đồi đến cùng cực! Lũ trẻ con hàng xóm kéo dến cướp tranh mà Đỗ Phủ gọi là "đạo tặc" - đám kẻ cướp. Chúng khinh nhà thơ "già yếu". Chúng trơ tráo trước tiếng kêu van “môi khô miệng cháy gào không được". Lũ trẻ gian tham cướp được chiếc tranh nào thì cứ ngang nhiên "cắp tranh đi tuốt vào lũy tre " chiếc tranh ấy. Như thế là sau thiên tai, gia đình nhà thơ lại gặp "đạo tặc", đó là lũ "quân đồng" hạ lưu, những “tiểu tướng... ” sản phẩm của một xã hội đại loạn. Nếu khổ thơ đầu chỉ mới nói đến cái rủi thì khổ thơ thứ 2 nói thêm nỗi đau, nỗi buồn trước một xã hội loạn lạc, đảo điên, trong đó lũ "quần đông" trẻ con vừa láo hỗn vừa gian tham.
Khổ thơ thứ ba ghi thêm một tai họa mới: trời mưa rét thâu đêm mà mái nhà đã bị gió thu phá nát. Gió lặng thì mây đen che phủ trời đất tối như mực. Mưa tầm tã suốt canh khuya. Nhà dột, giường không có một chỗ nào khô. Chăn rách nay thấm nước lạnh như sắt. Các chi tiết nghệ thuật được miêu tả vừa cụ thể, vừa hiện thực: gió, mưa, nhà dột, giường ướt, chăn rách...
"Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa chẳng dứt "
Nhà thơ ngồi trong mưa, ngồi dưới mưa thâu dêm. Tuổi già, sức yếu, bệnh tật... Đỗ Phủ vừa thương vợ con, vừa thương mình. Nỗi đau khổ như dồn lại, trút lên đầu một con người vừa nếm trải nhiều bất hạnh. Đêm như dài thêm ra:
“Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê,
Đêm dài ướt át sao cho trót? ”
Khổ thơ thứ 3, về mặt bố cục mang một ý nghĩa lớn, ghi lại cái đại họa trong một đêm thu trời mưa. Nó làm rõ thêm một kinh nghiệm sống: "Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí! Dân gian có câu: "Thứ nhất con đói, thứ nhì nợ đòi, thứ ba nhà dột!" Đỗ Phủ còn thêm một sự đau khổ nữa, đó là thân già, ốm đau ngồi co ro trong mưa rét, nhìn cảnh vợ con đang nằm dưới mưa lạnh thì nỗi khổ ấy không thể nào tả hết. Cái chăn cũ, mỏng, lâu năm, bình thường đắp đã không đủ ấm, đêm nay lại bị con thơ đạp rách nát trong cảnh mưa rét, nhà thủng mái... là những chi tiết nghệ thuật nói lên cái nghèo khổ, cái cùng cực của một gia đình tàn tạ giữa thời loạn lạc, đúng như trong bài “Nhớ em” ông đã viết: “Buồn phiền lúc ốm dai - Phó cho dòng nước chảy - Nghìn vạn mối sầu dài ”...
Nếu như ở khổ thơ đầu, ông sử dụng toàn vần bằng thì trong khổ thơ thứ ba này ông lại sử dụng toàn vần trắc: "sắc - hắc - thiết - liệt - tuyệt - triệt". Đó cũng là một dụng ý nghệ thuật: vần thơ như diễn tả nỗi đau khổ đang thắt lại, dồn nén, uất kết lại trong lòng nhà thơ.
Phần thứ tư là phần hay nhất của bài thơ. Năm dòng cuối thể hiện tấm lòng cao cả của một kẻ sĩ chân chính: thương dân và lo đời:
"Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!
Than ôi! Bao giở nhà ấy sừng sững đứng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được! "
Trong nỗi đau thương phũ phàng của cuộc đời, con người rất dễ rơi vào tình trạng khủng hoảng tinh thần, hoặc gục đầu cam chịu, rồi than thân trách phận. Cũng có thể suốt đêm ngồi trong mưa lạnh rét cóng, Đỗ Phủ có quyền nghĩ đến một mái lều, một tấm chăn, một bát cơm, một ngọn lửa... cho vợ con và bản thân ông. Nhưng nhà thơ đã làm cho người đọc bất ngờ trước niềm mong ước của ông. Ông mơ ước có một ngôi nhà kì vĩ "muôn ngàn gian " vô cùng vững chắc "Gió mưa chẳng núng vững như thạch bàn". Ngôi nhà ấy để "Che khắp thiên hạ kè sĩ nghèo đều hân hoan". Có thể nói, Đỗ Phú có tình thương lớn của một nhà nho chân chính sống và ứng xử theo phương châm: "Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ"
Thực tế xưa nay chưa hề có một ngôi nhà "rộng muôn ngàn gian " như thế trên thế gian. Khổ thơ được sáng tạo nên bằng biện pháp tu từ so sánh và thậm xưng diễn tả ước mơ to lớn và cảm hứng lãng mạn dào dạt, làm sáng bừng lên tấm lòng nhân ái bao la của một con người trải qua nhiều bất hạnh giữa thời loạn lạc. Sau loạn An - Sử, nhiều miền rộng lớn bị đốt phá tan hoang, hàng triệu người rơi vào thảm kịch: không cơm ăn, áo mặc, không cửa nhà, khắp mọi nơi người chết đói, chết khát đầy đường. Vì thế nhà thơ mong mỏi ai cũng có một mái ấm nương thân. Lo đời và thương người, khao khát hạnh phúc cho muôn dân là tình cảm tha thiết của nhiều bậc vĩ nhân, nhiều nhà thơ lớn xưa và nay. Nhà thơ Nguyễn Trãi cũng đã từng mơ ước có một cây đàn Ngu Cầm - cây đàn thần của vua Thuấn để mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân khắp mọi phương trời:
“Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương ”
(Quốc âm thi tập)
Trở lại "Bài ca nhà tranh bị gió thu phá ", ta vô cùng xúc động trước lời nguyện của nhà "hàn sĩ" Đỗ Phủ. Đây là những lời gan ruột, tâm huyết:
"Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!"
Thấy được ngôi nhà ấy tức là thấy được cảnh thái bình, no ấm yên vui đến với mọi người, mọi nhà, trong đó có những kẻ sĩ nghèo. Tác giả nêu ra một giả định rất chân thành cảm động. Nếu thấy ngôi nhà "muôn ngàn gian" trong mơ trở thành hiện thực thì riêng Đỗ Phủ “lều ta nát, chịu chết rét cũng được".
Chân thực là yếu tố hàng đầu của cảm xúc thơ ca. Lời nguyền của Đỗ Phủ rất chân thực. Không chỉ riêng bài thơ này, mà qua nhiều bài thơ khác, như chùm thơ "Tam lại ” và "Tam biệt ", ông đã nói đến tình thương yêu mãnh liệt và bao la đối với nhân dân lầm than giữa thời loạn lạc.
Có thể nói, 5 dòng thơ cuối bài thấm đẫm tình người, chứa chan tinh thần nhân đạo Sự kết hơp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn đã tạo nên giá trị nhân bản sâu sắc.
Mười ba thế kỷ đã trôi qua, "Bài ca nhà tranh bị gió thu phá" của Đỗ Phủ đã để lại cho chúng ta nhiều rung động và ám ảnh. Ám ảnh về những đau khổ và cay đắng của một nhà thơ vĩ đại lỗi lạc đời Đường phải nếm trải. Rung động về một ước mơ tuyệt đẹp nhưng chẳng bao giờ có được trong một xã hội loạn lạc, bất công thối nát. Có biết được tình cảnh bi đát của Đỗ Phủ sau khi nhà bị tốc mái, ông phải đưa vợ con xuống ở trên một chiếc thuyền con rách nát lênh đênh giữa dòng sông Tương - mới cảm được phần nào ý vị đậm đà tình nhân ái của bài thơ, cũng như các ý vị chua chát của một cuộc đời!