© 2020 Bài Kiểm Tra.com. All Rights Reserved.

Phân tích bài thơ “Tình ca ban mai” của Chế Lan Viên (Bài số 2)

Thứ ba - 24/01/2017 05:49
Có người đã từng nói: Mỗi tình nhân cũng đồng thời là một thi nhân. Phải chăng vì cảm xúc dạt dào, mãnh liệt của con người khi yêu đã chắp cánh cho những vần thơ bay bổng, lãng mạn.
Và cũng phải chăng vì vậy khi nói về tình yêu, người ta thường chỉ đề cập đến xúc cảm mà coi nhẹ lí trí, suy nghĩ, sợ rằng chỉ một chút ý nghĩ tỉnh táo thôi có thể tiêu tan, lỡ nhịp rung động của trái tim rồi?. Thế nhưng có một thi sĩ đã chỉ cho chúng ta thấy rằng: một chút lý trí, một chút tỉnh táo cũng góp phần làm nên hương sắc riêng.
 
Ấy là Chế Lan Viên với những vần thơ tình không bốc lên ở bề mặt mà lắng ở bề sâu: “Tình ca ban mai”:

Nhớ tới Chế Lan Viên, người ta thường nhớ những vần thơ kinh dị từ thuở “Điêu tàn”, những vần thơ sám hối từ “Ánh sáng và phù sa” hay “Những bài thơ đánh giặc” trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ ... Thế nhưng như chính Chế Lan Viên tự nói, ông là “tháp Bay-on bốn mặt”, đâu chỉ có những vần thơ triết luận chính trị.
 
Dù viết không nhiều nhưng thơ về đề tài tình yêu vẫn có vị trí riêng trong sự nghiệp sáng tác của Chế Lan Viên và góp thêm hương sắc mới cho thơ ca viết về tình yêu. Không dào dạt, bốc lửa như thơ tình Xuân Diệu, không dè dặt, da diết như thơ tình Nguyễn Bính; không hồn nhiên, sôi nổi khát vọng như thơ tình Xuân Quỳnh..., thơ tình Chế Lan Viên dù cũng rất thành thật, thiết tha nhưng vẫn chứa đựng chất trí tuệ, màu sắc suy tưởng. Ông không đi sâu thể hiện vẻ đẹp rực rỡ của tình yêu trong hình thức biểu hiện của nó mà nặng về biểu hiện cái trầm lắng, cái xao xuyến bên trong.
 
Phải chăng vì vậy ông hay nói về nỗi nhớ tình yêu trong xa cách? Bài thơ “Tình ca ban mai” cũng được khơi nguồn từ những nhung nhớ của tác giả khi thiếu vắng em bên cạnh. “Tình ca ban mai” - nhan đề bài thơ tuy ngắn gọn nhưng lại gợi biết bao liên tưởng trong lòng độc giả. Phải chăng là bài ca tình yêu trong buổi ban mai hay trong trẻo như không gian ban mai? Có lẽ nên hiểu ở cả hai nghĩa đó. Bởi lẽ bài thơ là khúc ca tình yêu trong không gian và thời gian trong trẻo, kì diệu. Nhà thơ đã nhận ra sự đồng nhất giữa tình yêu và ban mai. Có thể đây là tình yêu thuở ban đầu, hãy còn tinh khiết, tinh khôi như ban mai trong lành?.
 
Chính điều đó đã góp phần tạo nên vẻ đẹp về tình yêu lứa đôi rất riêng trong bài thơ này.
 
Có thể thấy rõ bài thơ chia làm hai phần gắn liền với sự xuất hiện của các đại từ nhân xưng “em” ở khúc điệu một và “ta” ở khúc điệu thứ hai. Điều đó phù hợp với sự phát triển của mạch cảm xúc giữa hai khúc điệu thơ.
 
Đọc nhan đề có thể người đọc sẽ nghĩ bài thơ mở đầu bằng thời gian, không gian sớm mai. Thế nhưng Chế Lan Viên lại mở đầu bài thơ bằng hai câu thơ gợi cảnh chiều:
 
“Em đi như chiều đi
Gọi chim vườn bay hết”
 
Một sự mở đầu rất khác thường vói nhan đề bài thơ. Như vậy, tác giả đã bắt ngay về hiện thực xa cách, hiện thực biệt ly. Cho nên có thể thấy mạch cảm xúc sẽ bao trùm bài thơ là nỗi nhớ tình yêu trong xa cách. Tại sao Chế Lan Viên không viết “Chiều xuống”, “Chiều tàn” mà lại là “Chiều đi”? Có lẽ các từ “Chiều xuống”, “Chiều tàn” gợi khoảng thời gian ảm đạm, úa tàn không phù hợp với màu sắc tình yêu trong trẻo mà nhà thơ muốn thể hiện trong bài thơ này. Cũng gợi ra thời gian chiều phù hợp với các cuộc chia tay muôn đời này nhưng cách nói của Chế Lan Viên thật độc đáo. Có thể em ra đi vào buổi chiều hoặc cũng có thể không như sự ra đi ấy đọng lại trong lòng anh một ấn tượng như “Chiều đi”. Hiện tại là chưa xa, lẽ dĩ nhiên nhà thơ sẽ hướng tới tương lai - ngày em về:
 
“Em về tựa mai về
Rừng non xanh lộc biếc”
 
rồi liên tưởng lại những kỉ niệm ngọt ngào bên em:
 
“Em ở trời trưa ở
Nắng sáng màu xanh che
Tình em như sao khuya
Rải hạt vàng chi chít”
 
Mỗi câu thơ mở đầu một khổ thơ (gồm hai câu và bốn câu) đểu ngắt nhịp 2/3:
 
“Em đi/như chiều đi”
“Em về/tựa mai về”
“Em ở/trời trưa ở”
“Tình em/như sao khuya”
 
Cách ngắt nhịp ấy trong thể thơ ngũ ngôn tạo âm hưởng trầm, buồn vắng, chậm, vừa gợi ấn tượng về sự dài dặc hun hút cách xa; vừa gợi tâm trạng thảng thốt của nhân vật trữ tình khi không có hình bóng em bên cạnh trong cuộc đời.
 
Cứ thế, từng khoảnh khắc thời gian, từng miền không gian cứ trôi đi qua miền tâm tưởng của nhân vật trữ tình và đều gắn với “em” . “Em đi”, “Em về”, “Em ở”, “Tình em” toàn là em, đầy ắp em trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Em lấp đầy các dòng thơ, khổ thơ, đoạn thơ. Tác giả so sánh “em” với hàng loạt hình ảnh “chiều”, “mai”, “trưa”, “sao khuya” các hình ảnh so sánh ấy một mặt gợi ra các khoảnh khắc thời gian trong một ngày.
 
Thế là em có mặt mọi lúc. Mặt khác đó cũng là các từ chỉ không gian. Thế là em có mặt khắp mọi nơi. Các hình ảnh đi theo bước chân em đều gặp gỡ ở một điểm rất thú vị. “Chiều”, “mai”, “trời trưa”, “sao khuya” đều chứa ánh sáng, đều là nguồn sáng. Như thế em vừa là hiện thân của thời gian, em vừa là hiện thân của ánh sáng. Có ánh chiều như vương vấn màu nắng nhạt “Mình cây nắng nhuộm bóng chiều không đi”. Có tia nắng ban mai làm cả khu rừng ánh lên sắc xanh. Có ánh nắng “màu xanh che” sáng mát chứ không gay gắt. Có cả ánh sao đêm lấp lánh trên vòm trời. Tất cả đều là em. Em xuất hiện ở nơi nào, nơi ấy có ánh sáng. Cho nên khi em đi, đó là một nỗi cô đơn sâu thẳm, tựa như khu vườn quạnh hiu, thưa vắng những cánh chim khi hoàng hôn buông xuống.
 
“Em về”, cả rừng non “xanh lộc biếc” , cảnh sắc hồi sinh, tươi tốt hay chăng chính tâm hồn anh đang được hồi sinh, dào dạt những xúc cảm tuổi xanh - ngày xanh... Dường như em là linh hồn, là sức sống của tạo vật. Vô tình hay hữu ý, gợi người đọc nhớ tới những vần thơ của Paul Eluard:
 
“Em đã đến, bếp lửa tàn lại đỏ
Bóng tối lui sao mọc giữa lạnh lùng
Em đã đến và cô đơn đã bại
Anh có người dẫn dắt ở trên đời”.
 
Như vậy hàng loạt các hình ảnh so sánh đã tạo nên sự đồng điệu giữa em và thời gian, em và ánh sáng. Sự đồng điệu ấy đã kí thác một chân lý của tình yêu trong nghĩ suy của Chế Lan Viên: không gian vũ trụ không vận hành theo quy luật của tự nhiên mà theo sự hiện diện hay vắng mặt của em. Và đến đây em đã trở thành trung tâm của vũ trụ, là linh hồn, trái tim của anh. Em hiện lên như vầng mặt trời chói loà:
 
“Thấy em như thấy mặt trời
Chói chang khó ngó, trao lời khó trao”
 
Bao yêu thương liên tưởng về em rồi sẽ qua đi, đọng lại trong anh lúc này sẽ là cảm giác thiếu vắng em. Cho nên từ đây, bài thơ có sự chuyển đối mạch cảm xúc đột ngột:
 
“Sợ gì chim bay đi
Mang bóng chiều bay hết
Tình ta như lộc biếc
Gọi ban mai lại về
Dù nắng trưa không ở
Ta vẫn còn sao khuya
Hạnh phúc trên đầu ta
Mọc sao vàng chi chít”
 
Các hình ảnh “chim bay đi” , “bóng chiều” ... tạo ra sự tiếp nối với câu thơ mở đầu. Thế nhưng nếu hai câu thơ:
 
“Em đi như chiều đi
Gọi chim vườn bay hết”
 
gợi ra hiện thực xa cách thì ở khúc điệu hai này lại là suy nghĩ của nhân vật trữ tình về sự ra đi của em. Và như thế, một cách rất tự nhiên, em đã nhập vào khúc điệu thơ thứ hai này. Dường như mạch thơ đọc lên có sự đối lập. Đã biết “em đi như chiều đi” cả khu vườn sẽ trống trải, quạnh hiu thì sao lại “sợ gì chim bay đi”? Nhân vật trữ tình đang nói với em hay độc thoại với chính mình.
 
Tưởng như một lời nói vu vơ bâng quơ, buột miệng thì nhưng đặt bên cạnh các từ “dù”, “vẫn còn” ta có thể hiểu được tâm trạng ấy của nhân vật trữ tình. Có thật lời anh hùng hổ, tự tin chắc chắn là không rồi. Nói không sợ mà vẫn sợ, vẫn lo âu, thấp thỏm. Thế nên phải mạnh lời như vậy để tự trấn an, tự an ủi mình. Mỗi câu thơ cũng như muốn vượt lên chính mình, ở một bài thơ khác, Chế Lan Viên đã nói trực tiếp cái khi phải đối mặt với sự thiếu vắng em:
 
“Không em anh chẳng qua vườn 
Sợ mùi hương ... sợ mùi hương nhắc mình”
 
Phải chăng Chế Lan Viên không muôn “hoá dại khờ”:
 
“Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi hoá dại khờ”
 
Như Hàn Mặc Tử? Đó là nỗ lực vượt lên chính mình hay dấu ấn trí tuệ đã in đậm vào hồn thơ ông? Khó có thể có câu trả lời đích đáng, chỉ biết rằng nhân vật trữ tình đang phải một mình chông chọi với nỗi cô đơn vì vắng em, thiếu em. Vậy làm sao anh có thể vượt qua nó? Cứ nhắc đến em hoài? Không - điều đó càng làm nỗi nhớ cồn cào da diết. Cho nên Chế Lan Viên tìm đến giải pháp khác. Ấy là cách xưng hô: “ta”. “Ta” ở đây đâu chỉ đơn thuần là anh. “Ta” còn là cả sự gắn bó giữa anh và em nữa. Như thế không nói em mà vẫn hiện diện, hơn thế nữa, còn khẳng định được tình cảm đôi ta.
 
Em ra đi nhưng tình em thì ở lại, tình ta vẫn còn. Điều khiến nhân vật trữ tình vượt qua nỗi nhớ em, sự trống trải, cô đơn vì vắng em ấy chính là tình yêu của em, tình yêu của chúng ta. Anh tin tưởng vào “tình ta” vào hạnh phúc sẽ như muôn vì sao “chi chít” trên cảnh trời đêm kia. Dường như các hình ảnh thơ trong khúc điệu này có sự đối lập với khúc điệu mở đầu và trật tự của các hình ảnh thơ cũng đã có sự đảo ngược trong từng khổ thơ. Ở trên vì em đi, chiều đi mà “chim vườn bay hết”, vì em về - mai về nên “rừng non xanh lộc biếc” còn ở đây vì chim bay đi nên “mang bóng chiều bay hết”, vì “lộc biếc” nên mối “Gọi ban mai về”.
 
Điều đó có nghĩa là ở khổ trên, tác giả muốn nhấn mạnh vào vị trí, vai trò của em - em là tất cả. Còn ở khúc điệu này , tác giả lại nhấn mạnh vào tình ta, tình ta sẽ làm hồi sinh tất cả. “Tình ta” cũng là cứu cánh để nhà thơ vượt qua nỗi cô đơn, mong nhớ da diết trong lòng. Xuân Quỳnh ở đâu đó, để vượt qua nỗi nhớ đã “đan áo mong chờ”:
 
“Khi anh vắng bàn tay em biết nhớ
Lấy thời gian đan thành áo mong chờ
Lấy thời gian em viết những dòng thơ
Để thấy được chúng mình trong cách trở”
 
Vượt qua bằng cách nào, tự an ủi, trấn an, quả quyết như Chế Lan Viên hay đan áo, làm thơ như Xuân Quỳnh đều là một nỗ lực rất lớn của con người khi yêu mà phải xa cách.

Nếu như bài thơ mở đầu bằng hiện thực biệt ly thì kết thúc bài thơ lại là tương tươi sáng:
 
“Mai, hoa em lại về”.
 
Nhân vật trữ tình hi vọng, mong chờ vào sự trở về chói lọi của em. Hi vọng ấy có xu hướng biến thành một niềm tin, một hiện thực vì “mai” là khoảng thời gian rất gần so với hiện tại. Chỉ một câu thơ năm chữ mà như một lời thông báo hân hoan vui sướng của nhân vật trữ tình: thời gian (mai), đối tượng (hoa em), hành động (lại về). Lời thơ như có gì rất phấn chấn, háo hức chờ mong.
 
Chỉ ngày mai nữa thôi là em đã trở về, đã hiện diện bên anh. Nếu ở khúc điệu mở đầu, em hiện lên như sự hoá thân, hiện diện của ánh sáng, em là trung tâm của vũ trụ thì trong câu thơ kết thúc bài thơ này, em lại đồng hiện với “hoa” , hoá thân vào “hoa”. Tại sao Chế Lan Viên lại không viết “Mai, em yêu lại về”, dù cách nói đằm thắm, trìu mến, thiết tha hơn?. Có lẽ bởi cách nói đó thiên về tình cảm mà phong cách Chế Lan Viên, dù là thơ tình cũng nghiêng về trí tuệ.
 
“Hoa em” là cách nói vừa độc đáo, vừa mới lạ, lại đậm chất trí tuệ. Dù ta đã bắt gặp sự liên tưởng vẻ đẹp thiếu nữ với hoa trong các sáng tác thơ ca cổ điển. Nhưng dường như các nhà thơ xưa mới chỉ nói đến “mặt hoa”, “gót hoa”, “lệ hoa” ... mà chưa ai ví chỉnh thể “hoa em” như Chế Lan Viên. Thế là em đã trở thành những gì hoàn mĩ nhất, hoàn thiện nhất trong cảm nhận của riêng anh.
 
Bài thơ kết lại bằng mơ ước, bằng niềm tin em sẽ trở về trong ban mai trong lành, tinh khiết, trinh khôi, trong tình yêu và sự trân trọng nâng niu của anh. Và như vậy có thể hiểu cả bài thơ là sự chờ đợi cho sự trở về này. Cũng như trong một bài thơ khác, Chế Lan Viên đã dồn nén sự mong nhớ đó trong ba câu thơ để rồi bật tung trong niềm hân hoan ở câu kết bài:
 
“Chỉ một ngày nữa thôi. Em sẽ
trở về. Nắng sáng cũng mong. Cây
cũng nhớ. Ngõ cũng chờ. Và bướm
cũng thêm màu trên cánh đang bay”
 
Cả bài thơ là một nỗi nhớ dằng dặc, da diết của nhân vật trữ tình. Thế nhưng ta không hề bắt gặp một chữ “nhớ”. Nó khác hẳn với thơ Xuân Diệu, nhớ đến muôn trào dâng ra cả ngoài câu chữ:
 
“Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em. Anh nhớ lắm em ơi !”
 
Thơ Chế Lan Viên không phải vì thế mà kém sâu sắc, xúc động. Người ta vẫn thấy nỗi nhớ ẩn hiện sau mỗi dòng thơ, khố thơ, đoạn thơ. Vì nhỏ nên mới nhận ra vị trí của “em” trong trái tim anh. Vì nhỏ nên phải tìm mọi cách vượt qua nỗi cô đơn, thiếu vắng em. Và cũng vì nhớ nên mới háo hức đợi chờ, mong mỏi, tin tưởng em về.
 
“Tình ca ban mai” nằm trong số các bài thơ viết về tình yêu trong xa cách của Chế Lan Viên. Thơ tình yêu của Chế Lan Viên không bộc trực, sôi nổi, mãnh liệt mà sâu sắc, thâm trầm, ở đây ta bắt gặp sự quyện hoà giữa lí trí và cảm xúc, giữa trữ tình và trí tuệ trong các hình ảnh chắt lọc, độc đáo mang dấu ấn một tài năng đạt đến độ tài hoa.
 
Bài thơ dù dùng nhiều hình ảnh so sánh, ẩn dụ nhưng không gợi cảm giác “sáng choang những vòng vàng, xuyên bạc”, đến thô kệch, ít giá trị thẩm mỹ. Trí tuệ mà vẫn đạt đến chiều sâu cảm xúc; hình ảnh thơ đẹp, mĩ lệ mà không khoa trương ... ấy chính là thành công riêng của bài thơ. Có những bài ông tạo ra sự độc đáo về hình thức đã biểu đạt nỗi nhớ da diết như trong bài “Tập qua hàng”, có những bài ông lại có những suy nghĩ sâu sắc như bài “Cái rét đầu mùa nhớ người đi về phía bể”:
 
“Một đắp cho em ở vùng sóng bể
Một đắp cho mình ở phía không em”
 
“Tình ca ban mai” là bài thơ trung hoà được hai sắc thái đó và đã trở thành bài thơ tình yêu đặc sắc của đời thơ Chế Lan Viên và của thơ ca hiện đại.
 
Có một nhà văn nước ngoài đã nói: “Tình yêu trong xa cách ví như lửa trong gió. Gió thổi tắt ngọn lửa nhỏ và thổi bùng ngọn lửa lớn”. “Tình ca ban mai” gợi nên một tình yêu đẹp không hề bị lụi tàn mà trái lại, cứ bừng cháy dù cho mưa gió của thòi gian. Ai đã một lần sống trong phút giây chờ đợi ngọt ngào, hẳn yêu lắm những vần thơ của Chế Lan Viên: “Mai, hoa em lại về”.
© Bản quyền thuộc về Bài kiểm tra. Ghi rõ nguồn Bài kiểm tra.com khi sao chép nội dung này.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây