© 2020 Bài Kiểm Tra.com. All Rights Reserved.

Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật Ai đã đặt tên cho dòng sông

Chủ nhật - 07/04/2024 09:54
Chẳng biết tự bao giờ, sông Hương – xứ Huế đã đi vào những thơ ca, nhạc họa và trở thành nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ.
Bài làm:
“Một lần anh đến Huế thơ
Gặp cô gái đẹp say mơ giấc nồng
Sông Hương quyến rũ lạ lùng
Em choàng tỉnh giấc ngượng ngùng nhìn tôi”


Chẳng biết tự bao giờ, sông Hương – xứ Huế đã đi vào những thơ ca, nhạc họa và trở thành nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Nhưng có lẽ, chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường - một cây bút tài hoa lãng mạn, một người con thân yêu của Huế mới có thể khiến sông Hương hiện lên với vẻ đẹp toàn bích. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thể hiện nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của ông.

Hoàng Phủ Ngọc Tường được coi là “Nhà văn của những dòng sông kỉ niệm”. Là con người đa tài, phóng khoáng, nhà văn đã đặt chân đến nhiều vùng đất nhưng Huế mộng mơ và dòng Hương giang huyền ảo vẫn luôn có một vị trí đặc biệt trong lòng nhà văn. Những kí ức tuổi thơ, hoài niệm về quá khứ, suy tư về cuộc đời,…tất cả đều được ông gửi vào điệu chảy êm đềm dưới cầu Trường Tiền ấy. Thể kí đến với ông cũng là mối lương duyên tiền định. Bút kí cho cái tôi uyên bác, tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường một không gian tự do để tung hoành sáng tạo. Trong tác phẩm, nhà văn đã gắn bó lòng yêu nước, tinh thần dân tộc với tình yêu dành cho thiên nhiên và văn hóa lịch sử của Huế.

Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là câu hỏi của một nhà thơ Hà Nội khi lặng ngắm dòng sông. Tác giả đã lý giải tên dòng sông bằng câu chuyện dân gian lấp lánh sắc màu huyền thoại. Người làng Thành Chung có nghề trồng rau thơm. Nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi. Không phải một nhà hiền triết uyên thâm hay vị tao nhân mặc khách nào mà chính những người dân bình thường đã sáng tạo, bồi đắp cho mảnh đất văn hóa ấy. Cách lí giải này cho thấy tình yêu tha thiết của nhà văn dành cho cố đô Huế và sông Hương, đồng thời thể hiện lòng biết ơn, ngưỡng mộ dành cho những con người đã khai phá vùng đất này.

Trong tác phẩm, sông Hương được tác giả miêu tả với ba trạng thái ở ba chặng khác nhau gồm khi ở thượng nguồn, ở trong lòng thành phố và ngoại vi thành phố.

Đầu tiên, sông Hương có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trường Sơn là chứng nhân lịch sử cho những năm tháng gian lao và hào hùng của dân tộc nên ở đây, sông Hương cũng mang dáng vẻ dữ dội, mạnh mẽ tựa như một “bản trường ca của rừng già”. Sự kết hợp của những hình ảnh ấn tượng như“ghềnh thác”, “đại ngàn”, “cơn lốc”, “đáy vực” và hệ thống từ giàu tính biểu cảm “rầm rộ”, “cuộn xoáy”, “mãnh liệt”, “dịu dàng”, “say đắm”, “chói lọi” diễn tả sức mạnh của dòng chảy. Bên cạnh đó, các gam màu rực rỡ như màu xanh của bóng cây, màu đỏ của hoa đỗ quyên khiến bức tranh sông Hương tràn đầy sức sống. Nhà văn so sánh dòng sông với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, cho thấy vẻ đẹp khỏe khoắn, trong sáng và phóng khoáng vô cùng. Và quả thực, giống như những thiếu nữ có tâm hồn kín đáo và thanh khiết, sông Hương chẳng chịu phô bày mình. Dòng sông bèn đóng cửa lòng mình ở cửa rừng và ném chiếc chìa khóa vào những hang đá ở chân núi Kim Phụng. Chi tiết này gợi liên tưởng đến những tiểu thư đài các xưa kia thường giấu mình đằng sau những khuê phòng “trướng rủ màn che”. Nếu ta chỉ “mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành” mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội thì chẳng thể nào nắm bắt được bản chất của nó. Cái hay của Hoàng Phủ Ngọc Tường nằm ở chỗ dù miêu tả sự hào hùng nhưng giọng văn của ông vẫn đượm chất trữ tình, mượt mà và lãng mạn.

Trong hành trình theo chân con sông xuôi về đồng bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra sự thay đổi tính cách của sông Hương. Toàn bộ thuỷ trình của dòng sông được tác giả cảm nhận như “một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của cô gái trong câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích”:

“Sông Hương tìm đến Huế
Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình.”

(Tố Hữu)

Không gian mở ra đẹp như huyền thoại: “Phải nhiều thế kỉ đi qua, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại”. Ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Dòng sông như bừng lên sức trẻ, niềm khao khát tình yêu, không thể chờ đợi thêm để có thể gặp được Huế. “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Câu văn dài, liệt kê nhiều địa danh khiến người đọc có cảm giác được ngồi trên du thuyền mà chiêm ngưỡng danh lam xứ Huế. Nhà văn đã vận dụng những kiến thức văn hóa trên nhiều lĩnh vực, kết hợp giữa kể và tả để làm nổi bật từng bước đi của sông Hương.

Bức tranh sông Hương có thêm đường nét, có hình khối. “Sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Qua những dãy đồi phía Tây Nam thành phố, sông Hương “ánh lên những phản quang rực rỡ. Nếu ta từng yêu cái xanh mướt mát như ngọc trong khu vườn thôn Vĩ, ắt hẳn cũng sẽ say mê sắc màu “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” của sông Hương. Xanh, vàng, tím đều là những gam màu quen thuộc nhưng qua con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường bỗng trở thành đặc trưng của không gian Huế “mà chẳng nơi nào có được”. Lạc đến những lăng tẩm, đền đài sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc “như triết lí, như cổ thi”. Lướt mình dưới chân những rừng thông u tịch, dòng sông khẽ khàng đi qua những lăng mộ của các vua chúa triều Nguyễn. Mặt nước phẳng lặng, êm ái. Tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân dài, tiếng gà gáy vẳng đến từ các thôn xóm. Không gian thật thanh bình và cổ kính. Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp khi có thể khắc họa những đường uốn lượn của dòng sông.

Nhà văn đang đóng vai một người kể chuyện, đôi khi tập trung vào những chi tiết rồi lại kéo ta trở về với hành trình chính. Đắm mình trong tiếng chuông chùa, ta giật mình nhận ra những xóm làng đã lùi xa. Sông Hương đã gặp Huế. Sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. Như những người yêu nhau không thể kìm lòng trong giây phút gặp mặt, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây – Nam, Đông - Bắc” khi nhìn thấy “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vành trăng non”. Càng đến gần thành phố, sông Hương càng phô bày hết vẻ nữ tính, yêu kiều. “Khi đã giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương Uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Tiếng “vâng” ở đây chính là sự đồng điệu của hai trái tim cùng chung nhịp đập. Chứng kiến câu chuyện tình yêu giữa sông Hương và Huế, ngắm nhìn dòng sông khi đã ở trong lòng thành phố của nó, ta mới thấy hết được vẻ đẹp, sức sống “bình dị nhưng không tầm thường, trầm mặc nhưng không ủy mị, dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất đai” mà Hoàng Phủ Ngọc Tường từng ngợi ca trong “Sử thi buồn”.

Vốn sống phong phú, kiến thức uyên bác của nhà văn được thể hiện trực tiếp nhất ở đoạn miêu tả sông Hương khi chảy vào thành phố Huế. Tác giả miêu tả chi tiết những phong tục, lễ hội của người dân nơi đây.Nhưng nếu chỉ kể, tả, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới chỉ là một người ghi chép. Ông thổi hồn vào từng ánh hoa đăng bồng bềnh “chao nhẹ trên mặt nước như những vương vấn của một nỗi lòng”. Kiến thức về âm nhạc đã giúp nhà văn tìm được cách biểu đạt gợi cảm, trữ tình, lãng mạn nhất để nói về “điệu Slow tình cảm” dành riêng cho Huế của sông Hương. Thiên tình ca vẫn được tiếp tục. Ngắm dòng sông, mà ta thấy được bao triết lí về tình yêu và con người. Cách nói “dành riêng cho Huế” đem đến cảm giác dòng sông đã thay dòng để đắm mình với cảnh sắc Huế cũng như con người khi yêu bỗng biết thay đổi để hòa hợp. Bên cạnh đó, tác giả còn so sánh sông Hương với sông Xen của Pari, sông Đa – nuýp của Bu- đa – pét, dòng sông Nê-va để thể hiện tình yêu, niềm tự hào về quê hương xứ sở.

Khi xa Huế, sông Hương xiết bao thương nhớ. Dù chếch về hướng chính Bắc nhưng dòng sông vẫn “ôm lấy đảo cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói”. Con sông chẳng muốn rời xa Huế, vẫn để lại chút lưu luyến giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Như bước chân “Xăm xăm băng lối” của nàng Kiều thuở xưa, dòng sông “đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng Đông -Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Sự thủy chung, son sắt của sông Hương dành cho Huế cũng chính là “tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.

Là nhà văn của những dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường từng nhận xét: “Sông Hồng là nỗi nhớ về phù sa của đời người, sông Cửu Long là sức mạnh đi tới biển và sông Hương như nỗi hoài vọng về một cái đẹp không thể đạt tới”. Có lẽ, sông Hương có “cái đẹp không thể đạt tới ấy” bởi nó hàm chứa trong mình rất nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử đằng sau vẻ nên thơ khiến ta mãi hoài vọng, băn khoăn. Sông Hương gắn với âm nhạc cổ điển Huế, trở thành “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Những âm thanh trong trẻo, quý báu trở thành di sản đã lớn lên từ những khoang thuyền, những mái chèo khuya. Điều này khiến tác giả liên tưởng tới việc có người nghệ nhân già gần thế kỷ chơi đàn, một đêm nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua/Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”.

Soi chiếu con sông từ góc độ thi ca, tác giả cho rằng đây là con sông “không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các thi sĩ”. Này là “Dòng sông trắng lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, này là “Kiếm dựng trời xanh” trong khí phách Cao Bá Quát,… Sông Hương trở thành mạch nguồn cho vô vàn sáng tạo nghệ thuật.

Trong mối quan hệ với lịch sử đất nước, sông Hương trở thành “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Nhà văn đã đưa người đọc trở về với quá khứ gian lao mà hào hùng của đất nước để cảm nhận giá trị của sông Hương. Dòng sông ấy đã có từ thời các vua Hùng, về sau lại chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc. Bước vào thế kỉ XVIII, sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Khi cả nước giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, đánh đuổi thực dân Pháp, sông Hương cũng có cho mình những chiến công rung chuyển. Lời phát biểu của đại tướng Võ Nguyên Giáp đã để lại trong ta bao xúc động nghẹn ngào: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho tổ quốc”.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bài kí dài nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường viết về Huế. Bằng tất cả tình yêu của mình, nhà văn đã khắc họa dòng sông trên tất cả các phương diện. Với ngôn ngữ trong sáng, lối hành văn tài hoa lãng mạn, hình ảnh phong phú, liên tưởng đặc sắc, kết hợp hài hoà giữa cảm xúc và trí tuệ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết nên bản tình ca nồng nàn về thiên nhiên và con người cố đô:

“Sao thèm một điệu gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.”

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây