© 2020 Bài Kiểm Tra.com. All Rights Reserved.

Phân tích bài thơ: Ánh trăng - Nguyễn Duy

Thứ tư - 23/09/2020 10:00
Phân tích bài thơ: Ánh trăng - Nguyễn Duy
Bài thơ ghi lại cảm xúc riêng của nhà thơ. Đó là những dòng tự sự từ một khoảnh khắc bùng vỡ trong một không gian mới, hoàn cảnh sống mới:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn - đinh tối om
vội bật tung của sổ
đột ngột vầng trăng tròn


Trong khoảng tối bắt gặp ánh sáng bất chợt ấy, chính cái ánh sáng gần như muôn đời của “vầng trăng tròn”. Đã khơi lại kí ức tưởng như đã ngủ quên trong lòng của nhà thơ.

Đúng vậy! Ánh sáng nhân tạo vụt tắt. Tất nhiên khoảng không trong tòa nhà cao tầng “tối om”. Phản ứng tự nhiên của con người là tìm nguồn sáng mới. Và có lẽ không có nguồn ánh sáng dự phòng nào (đèn dầu, đèn cầy, ...) nên nhà thơ đã “vội bật tung cửa sổ”, rồi sững lặng trước “vầng trăng tròn”! Cái ánh sáng tự nhiên, cái “vầng trăng tròn” gần như vĩnh cửu ấy đã là nguồn cảm hứng của những vần thơ nhớ về...

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ

Như bao bài thơ ngũ ngôn khác, mỗi khổ thơ có bốn câu, kết cấu bằng vần chéo (bể/kỉ - đồng/rừng) với thứ ngôn ngữ gợi không gian bình dị (đồng, sông, bể, rừng) gắn liền với hoạt động của từng độ tuổi. Nét mới của bài thơ là chỉ chữ mở đầu của mỗi khổ thơ được viết hoa. Có lẽ nhà thơ muốn giới thiệu sự chuyển dịch liền mạch của thời gian trong quá trình hoạt động của mình từ “hồi nhỏ” cho tới “hồi chiến tranh”.

Bao nhiêu không gian, bao nhiêu hoàn cảnh đổi thay! Hồi nhỏ thì câu cá ở cống Na, tìm bắt chim sẻ, ăn trộm nhãn chùa Trầm... Lớn lên thì ở rừng để đánh giặc. Bao hình ảnh ấy thật khó quên. Nhưng một mình thầm lặng trong đêm, cuối cùng nhà thơ nhận ra “vầng trăng thành tri kỉ”, là người bạn rất thân của nhà thơ. Người bạn rất thân ấy được miêu tả như thế nào?

Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ

Không che đậy, không giấu diếm khi xuất hiện giữa vũ trụ bao la. Thật thà, tự nhiên “như cây cỏ”. Sự mượt mà, xanh tươi và hiền dịu ấy phủ trùm lên tất cả, soi sáng cho mọi ngươi chứ chẳng riêng cho một ai. Trăng chân chất, trăng thật thà, trăng dịu hiền, chứ không lả lơi lãng mạn “nằm sõng soài trên cành trúc” như trong thơ Hàn Mặc Tử, hay trăng trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Trăng “hồi nhỏ” với trăng “hồi chiến tranh” cũng thế, như là người bạn. Hai câu thơ vơi hình ảnh ẩn dụ đã làm nổi bật bản chất hiền dịu, biết cảm thông khiến nhà thơ:

ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa

Vâng, con người thường có cảm giác ấy khi một mình đối diện với trăng. Nhưng hoàn cảnh biến đổi thì cảm giác của con người cũng thường thay đổi theo. “Từ hồi về thành phố”, đời sống vật chất cũng đổi thay. Lán trại, cây rừng mắc võng trở nên xa xăm trước những ngôi nhà cao tầng. Trong những ngôi nhà có nhiều ô “cửa gương” ấy, bóng tôi được xóa tan trong tích tắc bởi “ánh điện”. Ngày qua tháng, tháng qua năm,... người xưa quen với tiện nghi ấy nên thấy:

vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường

Đọc đi đọc lại hai cậu thơ trên, người đọc cảm nhận nỗi buồn vương vấn trong hai câu thơ: nỗi buồn trách cứ. Trăng vẫn là trăng muôn thuở, còn con người thì tâm trạng đổi thay! Ai buồn ai, dù với khoa học thì trăng chỉ là đất đá?

“Có mới nới cũ”, “được đèn quên trăng”,..., thế ra tâm lí “phụ bạc” với quá khứ ấy đã được tiền nhân đúc kết. Tiền nhân cũng nhắc nhở đời cần “cái thủy cái chung”. Bởi vậy đối diện với trăng trong hoàn cảnh “điện tắt - tối om”, nhà thơ đã thầm lặng:

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Cái hay của khổ thơ là ở nghệ thuật lặp lại từ không chỉ để tạo sự nhất quán về nội dung với khổ thơ đầu, mà còn để diễn tả tâm trạng vừa hối hận vừa bồi hồi xúc động. “Ngửa mặt” “nhìn mặt”, nhìn trăng, nhà thơ chợt nhớ “đồng, sông, bể”, nhớ về “hồi nhỏ”; nhìn trăng, nhà thơ chợt nhớ “rừng”, nhớ “hồi chiến tranh”. Trăng gắn với người, trở thành “tri kỉ” của người suốt cả khoảng đời khốn khổ. Phần đời còn lại:

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.

Nghệ thuật đối lập ý đã được vận dụng để diễn đạt bản chất của trăng và cách cư xử của con người. Ẩn dụ “tròn vành vạnh” chính là ân nghĩa thủy chung trước sau như một, chẳng quan tâm gì đến “ngươi vô tình”. Nhưng chính cái nhìn tự tại, cái nhìn “im phăng phắc” ấy đã làm nhà thơ phải “giật mình” về thái độ thờ ơ, lạnh nhạt của mình trước người “tri kỉ” thời ấu thơ, thuở khốn khó.

Từ một khoảnh khắc tình cờ của sự việc điện bị cúp, Nguyễn Duy đã viết “bản tự kiểm” về cách ứng xử “được đèn phụ trăng” của mình. Đọc bài thơ, ta nghĩ rằng chuyện riêng của nhà thơ có ý nghĩa với nhiều người, với nhiều thế hệ. Nó giúp ta sống thủy chung, ân nghĩa với quá khứ nối tiếp truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của tiền nhân.

* Ghi chú:
- Bài thơ thuộc thể ngũ ngôn, vần chéo (om/tròn...).
- Mặt trăng, hình tượng giúp con người tình thức để sống có tình nghĩa với quá khứ.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây