© 2020 Bài Kiểm Tra.com. All Rights Reserved.

Phân tích tác phẩm: Cô Tô của Nguyễn Tuân

Thứ ba - 18/08/2020 11:09
Phân tích tác phẩm: Cô Tô của Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân (1910 - 1987) quê ở Hà Nội, là nhà văn nổi tiếng, sở trường về thể tùy bút và kí. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện. Bài văn Cô Tô là phần cuối của bài kí Cô Tô - tác phẩm ghi lại những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô mà nhà văn Nguyễn Tuân thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo.
Cô Tô là một quần đảo gồm nhiều đảo nhỏ trong vịnh Bái Tử Long (thuộc vịnh Bắc Bộ), cách bờ biển tỉnh Quảng Ninh khoảng 100 km. Ngoài cá, biển Cô Tô còn nổi tiếng về mực, ngọc trai, hải sâm, bào ngư. Và tất nhiên ngoài sự thuận lợi, phong phú về tải sản, Cô Tô cũng gặp khó khăn từ thiên nhiên như bất cứ một quần đảo nào khác, đó là dông bão. Người đọc biết được khó khăn ấy không ở môn học địa lí mà ở ngay những câu văn mở đầu của đoạn trích. Tác giả đã bốn ngày ở đảo. “Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa. ..., sau mỗi lần dông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô củng trong sáng như vậy”. Và bắt đầu từ thời điểm đó, buổi sáng vào “ngày thứ năm”, Nguyễn Tuân kể lại chuyến đi thăm đảo của ông. Mục đích là đi thăm người, nhưng ai cấm được cặp mắt ông xem cảnh? Nguyễn Tuân cùng một nhóm người leo dốc. Trên đường đi, ông quan sát và so sánh: “Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa”. Trong câu văn ấy, ngoài nghệ thuật so sánh nhà văn còn vận dụng các tính từ như “mượt, đậm đà, giòn” để làm tăng thêm độ tươi, láng mịn, độ trong của cỏ cây, cát và nước biển. Và tác giả cũng không quên đề cập tới nguồn lợi kinh tế chính của người dân vùng đảo: Cá có biệt tăm trong những ngày biển động thì lại tràn về lúc biển lặng.

Mục đích của việc leo dốc là “lên đồn Cô Tô hỏi thăm sức khỏe anh em bộ binh và hải quân cùng đóng sát nhau trong cái đồn khố xanh cũ ấy”. Trong câu văn, tác giả không quên nhắc tới “đồn khố xanh”, cái đồn dành cho “sắc lính trong quân dội thuộc địa dưới chế độ thực dân Pháp. Lính khố xanh canh giữ các công sở, địa phương, chân có quấn xà cạp màu xanh để phân biệt với các sắc lính khác”. Nó là một chứng tích lịch sử về chủ quyền quốc gia. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, khách nhìn tận mắt, nghe tận tai vóc dáng và giọng nói cười của chú là biết ngay “sức khỏe” của chú. Và chú cũng không quên mời khách “trèo lên nóc đồn” để hòa mình vào khoảng bao la của Thái Bình Dương, mặc sức mà ngắm toàn cảnh đảo Cô Tô, và phóng tầm mắt nhìn qua những hòn đảo khác. Thế là hết ngày thứ năm trên đảo...
Qua ngày thứ sáu, nhà văn đón mặt trời trên đảo Thanh Luân. Đây là một đoạn văn tiêu biểu về nghệ thuật chọn lựa hình ảnh để so sánh làm tăng vẻ đẹp vốn đã quyến rũ của cảnh mặt trời lên trên đảo Thanh Luân. Nhà văn đã thức từ canh tư, cố đi qua “đá đầu sư”, viên đá tròn trơn láng đã được so sánh cụ thể như thế. Chân trời, ngấn bể thì được so sánh “sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi”. So sánh như thế thì chắc không bầu trời nào trong sáng hơn. Hình ảnh mặt trời lên ở đảo được tác giả miêu tả thật tuyệt vời. Cả một đoạn văn dài tác giả sử dụng phép so sánh, ví chân trời như cái “mâm bạc”. Đặt trên cái mâm bạc ấy là mặt trời “tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng”. Tất cả “y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”. Một so sánh trang trọng, rực rỡ và tráng lệ khiến người đọc choáng ngợp trước vẻ đẹp kì vĩ của cảnh mặt trời mọc ở đảo sau ngày bão dông. Đấy là quà tặng của nhà văn cho cả thiên nhiên lẫn con người vùng đảo hòa hợp và kiên cường qua tài dùng từ gợi hình để so sánh.

Ba đoạn văn ở phần cuối tác giả miêu tả cảnh sinh hoạt của người dân trên đảo khi mặt trời đã lên cao chung quanh “Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền”. Cùng với lối viết so sánh để nhấn mạnh về lối sống thân tình của người dân vùng bốn bề đều là biển mặn. Ở một vùng đất như thế thì cái giếng nước ngọt là điểm tập trung quý vô cùng. Người ở đảo gặp nhau lúc ra giếng tắm, lúc đến múc và gánh nước về nhà để dùng, kể cả “bao nhiều là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp đổ nước ngọt vào”. Sinh hoạt của người dân ở giếng nước ngọt là như thế. Nhà văn cũng không quên đề cập đến một gia đình mà cả chồng lẫn vợ đều có mặt ở giếng nước ngọt sáng hôm ấy: gia đình anh hùng Châu Hòa Mẫn. Anh thì quẩy mười lăm gánh nước cho thuyền của mình. Buổi sáng hôm ấy hợp tác xã Bắc Loan Đầu của anh cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi. Và như anh cho biết: “Đi ra khơi, xa lắm mà có khi mười ngày mới về. Nước ngọt cho vào sạp, chỉ để uống. Vo gạo thổi cơm cũng không được lấy nước ngọt. Vo gạo bằng nước bể thôi”. Nước ngọt quý đến như vậy đây. Còn giữa đám đông người gánh nước nối tiếp đi về, nhà văn “Trông chị Châu Hòa Mẫn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành”. Từ cái giếng nước ngọt “đậm đà mát nhẹ” tới hình ảnh của chị Châu Hòa Mẫn địu con, đoạn văn đã giới thiệu cho người đọc nhận ra sự cần mẫn và tình người chan hòa vui vẻ và đậm đà của con người trên đảo.

Sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, chọn hình ảnh so sánh độc đáo, tinh tế và giàu màu sắc, Nguyễn Tuân đã mang đến cho người lọc cảnh thiên nhiên đẹp đến tuyệt vời, tình người chan hòa, hiền hậu ở đảo Cô Tô. Không chỉ yêu thương thêm Tố quốc, người còn mong muốn được đến thăm hòn đảo đáng yêu quý này, ít nhất là một lần trong đời.

 * Ghi chú:
- Cô Tô là phần cuối bút kí Cô Tô của Nguyễn Tuân.
- Nội dung: - Cảnh trên đảo Cô Tô và đảo Thanh Luân sau dông bão.
- Cảnh sinh hoạt bên giếng nước ngọt ở đảo.
- Nghệ thuật sử dụng phép so sánh, và dùng các tính từ khi miêu tả.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây