Câu hỏi trang 25: Em có biết vì sao ngày 10-3 (âm lịch) lại được Nhà nước quy định là ngày nghỉ lễ? Ngày này có ý nghĩa như thế nào đối với người Việt Nam?
Giải:
- Ngày 10/3 âm lịch là ngày Giỗ Tổ Hùng vương, đây là một trong những ngày lễ lớn của dân tộc Việt Nam.
- Ý nghĩa: Giỗ tổ Hùng vương được tổ chức nhằm tưởng nhớ công lao dựng nước của các vua Hùng; thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.
Câu hỏi trang 25: Đọc thông tin và quan sát hình 1, em hãy xác định vị trí của khu di tích Đền Hùng trên lược đồ.
Giải:
Em tự làm
Câu hỏi trang 26: Quan sát hình 2, em hãy xác định một số công trình kiến trúc chính trong khu di tích Đền Hùng.
Giải:
- Các công trình kiến trúc chính của khu di tích Đền Hùng là: Đền Tổ mẫu Âu Cơ; đền Thượng; Lăng vua Hùng; Đền Trung; Giếng cổ; Đền Giếng; đền Hạ và chùa Thiên Quang.
Câu hỏi trang 27=: Đọc thông tin và quan sát từ hình 3 đến hình 5, em hãy:
• Cho biết lễ giỗ Tổ Hùng Vương diễn ra ở đâu và vào thời gian nào.
• Nêu một số nét sơ lược về lễ giỗ Tổ Hùng Vương.
Giải:
•
Yêu cầu số 1: Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương diễn ra ở tại Đền Hùng (Phú Thọ) vào ngày 10/3 âm lịch hằng năm.
Yêu cầu số 2: Một số nét sơ lược: Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng gồm có phần lễ và phần hội.
- Phần lễ bao gồm:
+ Rước kiệu: đoàn rước có trống, chiêng, cờ, lọng, kiệu, hoa, lễ vật,... xuất phát từ chân núi Nghĩa Lĩnh qua cổng Đền Hùng đến Đền Hạ, Đền Trung rồi dừng lại ở Đền Thượng.
+ Lễ tế và dâng hương: lễ vật được dâng lên bàn thờ Vua Hùng và các vị thần linh. Chủ tế đọc văn tế, sau đó từng người lần lượt thắp hương đề tưởng nhớ các Vua Hùng.
- Phần hội gồm có các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, thi đấu thể thao, tổ chức các trò chơi dân gian,...
Câu hỏi trang 28: Trong lễ hội Đền Hùng, phần hội thường diễn ra những hoạt động gì?
Giải:
- Trong lễ hội Đền Hùng, phần hội gồm có các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, thi đấu thể thao, tổ chức các trò chơi dân gian,...
Câu hỏi trang 28: Đọc thông tin và quan sát các hình 8, 9, em hãy kể lại truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên” và “Bánh chưng, bánh giầy”.
Giải:
- Kể lại truyền thuyết “con Rồng cháu Tiên”:
+ Lạc Long Quân kết duyên với Âu Cơ và sinh được một bọc trăm trứng, nở được một trăm con.
+ Đến một ngày, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên. Nay ta đem năm mươi người con xuống biển còn năm mươi người con theo nàng lên núi và hãy giúp đỡ nhau.
+ Âu Cơ cùng năm mươi người con ở Phong Châu, suy tôn người con trưởng làm vua, gọi là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang.
- Kể lại truyền thuyết “bánh chưng bánh giầy”:
+ Hùng Vương đời thứ sáu có hai mươi người con trai ai cũng giỏi giang, tài giỏi. Khi vua về già không biết chọn ai nối ngôi bằng nghĩ ra cách dâng lễ vật trong lễ Tiên vương, lễ vật nào ý nghĩa và hợp ý vừa nhất sẽ được truyền ngôi.
+ Lang Liêu là người con thứ mười tám của vua, trong khi các anh em lên rừng xuống biển tìm lễ vật thì Lang Liêu vẫn đang lo lắng chưa tìm ra lễ vật. Trong cơn mơ chàng được vị thần mách cho cách làm một loại bánh sử dụng nguyên liệu sẵn có. Hai chiếc bánh với hình vuông tượng trưng cho đất va hình tròn tượng trưng cho trời.
+ Đến lễ Tiên vương, chàng dâng lên cho vua, vừa khen ngợi và rất hài lòng, vua Hùng quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu.
* Luyện tập trang 29
Câu 1. Kể tên những công trình kiến trúc chính trong khu di tích Đền Hùng.
Giải:
Một số công trình kiến trúc chính:
Đền Quốc Mẫu Âu Cơ
Đền Thượng
Lăng Hùng Vương
Đền thờ Lạc Long Quân
Đền Hạ
Đền Giếng
Câu 2. Hãy phân loại những hoạt động dưới đây thuộc phần Lễ hay phần hội trong lễ giỗ Tổ Hùng Vương:
Giải:
Phần Lễ: Rước kiệu, đọc văn tế, dâng hương
Phần Hội: Hát Xoan, Thi gói bánh chưng, thi đấu thể thao
* Vận dụng trang 29. Lựa chọn một trong hai nhiệm vụ dưới đây:
1. Hãy giới thiệu tóm tắt về lễ giỗ Tổ Hùng Vương cho mọi người trong gia đình em.
2. Ngoài những câu chuyện đã học trong bài, hãy kể cho bạn một truyền thuyết có liên quan đến thời đại Hùng Vương.
Giải:
2. Ngoài những câu chuyện đã học trong bài, hãy kể cho bạn một truyền thuyết có liên quan đến thời đại Hùng Vương.
Sự tích dưa hấu
Ngày xưa, Vua Hùng Vương thứ 18 có nuôi một đứa trẻ thông minh khôi ngô, đặt tên là Mai Yển, hiệu là An Tiêm.
Lớn lên, vua cưới vợ cho An Tiêm, và tin dùng ở triều đình. Cậy nhờ ơn Vua cha, nhưng An Tiêm lại kiêu căng cho rằng tự sức mình tài giỏi mới gây dựng được sự nghiệp, chứ chẳng nhờ ai. Lời nói này đến tai vua, vua cho An Tiêm là kẻ kiêu bạc vô ơn, bèn đày An Tiêm cùng vợ con ra một hòn đảo xa, ở ngoài biển Nga Sơn (Thanh Hoá, Bắc Việt).
Người vợ là nàng Ba lo sợ sẽ phải chết ở ngoài cù lao cô quạnh, nhưng An Tiêm thì bình thản nói: “Trời đã sinh ra ta, sống chết là ở Trời và ở ta, việc gì phải lo”.
Hai vợ chồng An Tiêm cùng đứa con đã sống hiu quạnh ở một bãi cát, trên hoang đảo. Họ ra sức khai khẩn, trồng trọt để kiếm sống. Một ngày kia, vào mùa hạ, có một con chim lạ từ phương tây bay đến đậu trên một gò cát. Chim nhả mấy hạt gì xuống đất. Được ít lâu, thì hạt nảy mầm, mọc dây lá cây lan rộng.
Cây nở hoa, kết thành trái to. Rất nhiều trái vỏ xanh, ruột đỏ. An Tiêm bảo vợ: “Giống cây này tự nhiên không trồng mà có tức là vật của Trời nuôi ta đó”. Rồi An Tiêm hái nếm thử, thấy vỏ xanh, ruột đỏ, hột đen, mùi vị thơm và ngon ngọt, mát dịu. An Tiêm bèn lấy hột gieo trồng khắp nơi, sau đó mọc lan ra rất nhiều.
Một ngày kia, có một chiếc tàu bị bão dạt vào cù lao. Mọi người lên bãi cát, thấy có nhiều quả lạ, ngon. Họ đua nhau đổi thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Rồi từ đó, tiếng đồn đi là có một giống dưa rất ngon ở trên đảo. Các tàu buôn tấp nập ghé đến đổi chác đủ thứ vật dụng và thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Nhờ đó mà gia đình bé nhỏ của An Tiêm trở nên đầy đủ, cuộc sống phong lưu.
Vì chim đã mang hột dưa đến từ phương Tây, nên An Tiêm đặt tên cho thứ trái cây này là Tây Qua. Người Tàu ăn thấy ngon, khen là “hẩu”, nên về sau người ta gọi trại đi là Dưa Hấu.
Ít lâu sau, vua sai người ra cù lao ngoài biển Nga Sơn dò xét xem gia đình An Tiêm ra làm sao, sống hay chết. Sứ thần về kể lại cảnh sống sung túc và nhàn nhã của vợ chồng An Tiêm, nhà vua ngẫm nghĩ thấy thán phục đứa con nuôi, bèn cho triệu An Tiêm về phục lại chức vị cũ trong triều đình.
An Tiêm đem về dâng cho vua giống dưa hấu mà mình may mắn có được. Rồi phân phát hột dưa cho dân chúng trồng ở những chỗ đất cát, làm giàu thêm cho xứ Việt một thứ trái cây danh tiếng. Hòn đảo mà An Tiêm ở, được gọi là Châu An Tiêm.