© 2020 Bài Kiểm Tra.com. All Rights Reserved.

Soạn văn 11, Tập làm văn: Luyện tập thao tác lập luận phân tích

Thứ sáu - 03/01/2020 08:51
Hướng dẫn soạn Ngữ văn 11, Tập làm văn: Luyện tập thao tác lập luận phân tíchBài tập 1. Tự ti và tự phụ là hai thái độ trái ngược nhau nhưng đều ảnh hưởng không tốt đến kết quả học tập và công tác. Anh (chị) hãy phân tích hai căn bệnh trên.Bài tập 2. Phân tích hình ảnh sĩ tử và quan trường qua hai câu thơ sau:Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,Ậm ọe quan trường miệng thét loa(Trần Tế Xương – Vịnh khoa thi Hương)
TẬP LÀM VĂN: LUYỆN TẬP THAO TÁC LẬP LUẬN PHÂN TÍCH
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
– Củng cố và nâng cao tri thức về thao tác lập luận phân tích.
– Vận dụng thao tác lập luận phân tích trong bài văn nghị luận.
B. NỘI DUNG BÀI HỌC
Trong bài trước, chúng ta đã học về mục đích, yêu cầu và cách sử dụng lập luận phân tích trong bài văn nghị luận. Bài này sẽ giúp các em tập trung luyện tập thao tác lập luận phân tích.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Bài tập 1. Tự ti và tự phụ là hai thái độ trái ngược nhau nhưng đều ảnh hưởng không tốt đến kết quả học tập và công tác. Anh (chị) hãy phân tích hai căn bệnh trên.
Gợi ý:
– Phân tích những biểu hiện của thái độ tự ti và tự phụ.
– Phân tích tác hại của tự ti và tự phụ.
– Khẳng định cách sống hợp lí.
– Liên hệ với thực tế đời sống
Từ những nội dung trên, HS viết thành từng đoạn hoặc viết thành bài hoàn chỉnh

Bài mẫu:
Bản thân mỗi con người ai cũng có lối sống, phẩm chất, năng lực... khác nhau. Nhưng điều đó được thể hiện ra bên ngoài khác nhau. Có người quá tự ti luôn nghĩ năng lực mình thấp kém, có người thì tự phụ nghĩ năng lực mình hơn nhiều người khác. Đó là hai căn bệnh có ảnh hưởng đến học tập và công tác.

Vậy tự ti là gì và biểu hiện của nó như thế nào. Tự ti là tự đánh giá thấp mình nên thiếu tự tin trong công việc. Tự ti hoàn toàn khác với khiêm tốn. Khiêm tốn là nhún nhường, không khoe khoang. Khiêm tốn là một đức tính tốt, giúp người ta được lòng mọi người, được mọi người ủng hộ nên rất dễ thành công trong công việc. Ngược lại, kẻ tự ti thường không dám tin tưởng vào năng lực, sở trường sự hiểu biết, kiến thức của mình. Họ nhút nhát thường tránh xa những chỗ đông người. Không dám mạnh dạn đám nhận trách nhiệm được giao. Vì thế họ thường lo sợ thất bại nên họ phải chịu nhiều hậu quả đáng tiếc. Vì sợ thất bại nên họ thường không có sự mạnh dạn trong công việc nên không bao giờ họ thành công. Vì tính nhút nhát tránh xa chỗ đông người nên họ rất ít bạn và không nhận được sự giúp đỡ của mọi người khi thất bại. Chính điều đó không chỉ làm anh hưởng đến cá nhân mà còn ảnh hưởng đến tập thể.

Còn tự phụ là gì và biểu hiện của tự phụ như thế nào. Tự phụ là thái độ đề cao quá mức bản thân, tự cao tự đại đến mức xem thường người khác. Tự phụ hoàn toàn khác với tự hào. Tự hào là niềm kiêu hãnh, hãnh diện về bản thân vì đã thành công, niềm vui sướng hạnh phúc khi giúp ích cho bản thân. Ngược lại kẻ tự phụ luôn tự đề cao quá mức bản thân nên rất dễ bị xa lánh, chủ quan và thường bị thất bại trong công việc kể cả học tập. Người tự phụ luôn tự cho mình là đúng ở mọi việc thì họ không bao giờ nghe những ý kiến của người khác để khác phục thường hay bảo thủ. Khi làm được việc gì đó lớn lao thậm chí tỏ ra coi thường, lên mặt với người khác, tự cho mình là giỏi giang. Những tính xấu này thường có ảnh hướng rất lớn đến bản thân làm họ bị mọi người xa lánh tẩy chay, chủ quan nên dẫn đến thất bại, bảo thủ không nghe ý kiến người khác để khắc phục bản thân. Chia rẽ mất đoàn kết gây ảnh hướng xấu đến học tập và công việc.

Tóm lại, chúng ta cần phải đánh giá đúng khả năng bản thân. Tự tin chứ không tự ti. Tự hào nhưng không tự phụ có như thế mới là con người văn minh tiến bộ và mỗi người mới phát huy tốt sở trường của mình.

Bài tập 2. Phân tích hình ảnh sĩ tử và quan trường qua hai câu thơ sau:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
(Trần Tế Xương – Vịnh khoa thi Hương)
Gợi ý:
– Phân tích nghệ thuật sử dụng biện pháp đảo trật tự từ: lôi thôi, ậm oẹ.
– Phân tích hình ảnh vai đeo lọ của sĩ tử và hình ảnh miệng thét loa của quan trường.
– Cảm nhận về cảnh thi cử và tài năng của Tú Xương trong việc tái hiện hiện thực HS luyện nói theo từng ý, sau đó viết thành những đoạn văn. Chú ý sử dụng các thao tác lập luận phân tích.

Bài mẫu:
Kẻ sĩ xưa vốn không “Đề huề lưng túi gió trăng”, “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa” như chàng Kim của Nguyễn Du thì cũng “đầu đội trời chân đạp đất” “Chí nam nhi nam bắc tây đông” như Nguyễn Công Trứ. Bởi vậy nên ta thấy lạ lắm, kì lắm cho những chàng sĩ tử trong bộ dạng thế này:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ”

Những học trò của cửa Khổng sân Trình nhưng chẳng khác nào phường buôn thùng bán mẹt, đầu đường xó chợ. Tú Xương đã dùng phép đảo ngữ để đưa hai từ “Lôi thôi” lên trước, “lôi thôi” là luộm thuộm không gọn gàng. Hai từ ấy tạo ấn tượng về đám sĩ tử bệ rạc, ăn mặc lếch thếch, thật phường giá áo túi cơm hèn mọn, gắng lắm chỉ gánh nổi đôi hạt vừng nói chi đến đội trời đạp đất? Ăn mặc đã vậy, tác phong cũng thật lạ kì: “vai đeo lọ”. Lọ gì? Lọ mực chăng? (Nói đến sĩ tử có lẽ nào lại là lọ nước?!) Từ “đeo” khiến dáng vẻ kẻ sĩ thêm nặng nề, kì cục, “đeo” là đeo vật gì nặng nề ra điều khó nhọc, nay đeo lọ mực thì cái dáng vẻ ấy vừa buồn cười lại vừa thêm bội phần luộm thuộm. Lọ mực nhỏ vậy mà đã “đeo” còn bút giấy không hiểu mang vác, khuân ôm thế nào? Ở đây có thể hiểu thêm một ẩn ý sâu xa của nhà thơ: việc học hành, ôn luyện chữ thánh hiền là một việc quá sức với những kẻ ngu ngốc, kệch cỡm như vậy. Nhưng mang mực đi đâu mà phải “đeo” như vậy?

“Ậm oẹ quan trường miệng thét loa”
Vịnh khoa thi Hương - Trần Tế Xương

Nhắc đến quan trường là nhắc đến trường thi. Ra là những sĩ tử kia đi thi. Ta biết rằng việc thi cử trong xã hội xưa là một việc vô cùng quan trọng, cho cả kẻ sĩ, cho cả triều đình, đất nước bởi thi là để chọn ra người hiền tài giúp nước. Bởi vậy, trường thi luôn toát lên vẻ trang trọng, uy nghiêm. Nhưng trường thi này thì khác, đám sĩ tử thì lôi thôi, bệ rạc. Còn đám quan trường coi thi cũng chẳng hơn, “ậm oẹ”, “thét loa”. Tiếp tục dùng phép đảo ngữ, đưa từ “ậm oẹ” lên trước nhà thơ muôn tạo ấn tượng về những bậc quan chưa thấy người mà đã thấy tiếng. Không phải tiếng tăm, danh vọng chi mà là tiếng quan trường “thét loa” (gọi sĩ tử, thông báo, nhắc nhở,... điều gì đó) bằng thứ tiếng thét “ậm oẹ” - tiếng bị cản từ trong cổ họng nghe không rõ. Chỉ riêng từ “ậm oẹ” đã đủ bán đứng tư cách và phẩm giá vị quan trường. Đó là những kẻ “ăn không nên đọi nói chẳng nên lời” vậy sao có thể cai quản việc nước? Âm thanh “ậm oẹ” còn gợi liên tưởng đến tiếng người câm đang cố gào lên điều gì đó. Chỉ khác là ở đây quan trường không gào mà “thét”, “thét loa”. “Thét” để át đi những âm thanh ồn ã, lộn xộn nhộn nhạo hay “thét” để góp thêm vào sự hỗn loạn vốn có. Cái dáng vẻ ấy nhốn nháo thế nào, nó không có được sự nghiêm túc, chỉn chu, trang nghiêm cần có ở một vị quan.

Hình ảnh đám sĩ tử lôi thôi, bệ rạc và lũ quan trường lộn xộn, ồn ã đã gợi đến hình ảnh một buổi thi Hương lúc cuối mùa của Nho học, khi ngày tàn của chế độ phong kiến và thời điểm úa tàn của nền độc lập dân tộc trước sự xâm lăng của chủ nghĩa thực dân. Hình ảnh ấy mang giá trị tố cáo sâu sắc, đồng thời nó ẩn chứa một nỗi đau, một tiếng thở dài của Tú Xương.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây