© 2020 Bài Kiểm Tra.com. All Rights Reserved.

Tổng kết từ vựng (tiếp theo) - Ngữ Văn 9

Thứ sáu - 06/10/2017 06:26
Mục đích của bài tổng kết giúp các em củng cố kiến thức về từ vựng đã học từ lớp 6 đến lớp 9
- Từ tượng thanh và từ tượng hình;
- Một số phép tu từ từ vựng (so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, nói quá, nói giảm nói tránh, chơi chữ). 

I. Từ tương thanh và từ tượng hình
1. Khái niệm từ tượng thanh và từ tượng hình


- Từ tượng hình là từ gợi tả hình ảnh, dáng vẻ, trạng thái của sự vật. Ví dụ:

Tôi xồng xộc chạy vào. Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. (Nam Cao)

Từ tượng thanh là từ mô phỏng âm thanh của tự nhiên, của con người Ví dụ:

Này! Ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó cứ nằm im như nó trách tôi: nó kêu ư ử, nhìn tôi, như muốn bảo tôi rằng: “Á/ Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối xử với tôi như thế này à ?” (Nam Cao)

2. Tên những loài vật là từ tượng thanh: mèo, bò, tắc kè...

3. Các từ tượng hình trong đoạn trích dẫn ở SGK trang 147: lốm đốm, lê thê, loáng thoáng, lồ lộ.

Các từ tượng hình có tác dụng làm cho hình ảnh đám mây hiện lên một cách sinh động và cụ thể.

II. Một số phép tu từ từ vựng
1. Khái niệm

- So sánh là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. Ví dụ:

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

(Ca dao)

- Ẩn dụ ki gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. Ví dụ:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng 
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

(Viễn Phương)

- Nhân hoá là gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật... bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người; làm cho thế giới loài vật, cây cối, đồ vật... trở nên gần gũi với con người, biểu thị được những suy nghĩ, tình cảm của con người. Ví dụ:

Ông trời
Mặc áo giáp đen
Ra trận
Muôn nghìn cây mía
Múa gươm
Kiến
Hành quân
Đầy đường


(Trần Đăng Khoa)

- Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm bằng tên của một sự vật, hiện tượng, khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

Ví dụ:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.

(Tố Hữu)

- Nói quá là biện pháp tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện tượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng tăng sức biểu cảm.

Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.

(Ca dao)

- Nói giảm, nói tránh là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề tránh thô tục, thiếu lịch sự. Ví dụ:

Bác đã đi rồi sao Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời.

(Tố Hữu)

- Điệp ngữ là việc lặp đi lặp lại từ ngữ (hoặc cả một câu) một cách nghệ thuật. Ví dụ:

Mùa xuân của tôi - mùa xuân Việt Bắc, mùa xuân của Hà Nội là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng. (Vũ Bằng)

- Chơi chữ là việc lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc thái dí dỏm, hài hước... làm câu văn hấp dẫn và thú vị. Ví dụ:

Nửa đêm, giờ tí, canh ba,
Vợ tôi, con gái, đàn bà, nữ nhi.

(Ca dao)

2. Phân tích nét nghệ thuật độc đáo của nhửng câu thơ trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du.

a) Thà rằng liều một thân con
Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây.


Hai câu thơ sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ đế nói về việc Kiều quyết định bán mình chuộc cha và cứu gia đình. Từ hoa, cánh dùng để chỉ Thúy Kiều và cuộc đời Thúy Kiều; cây, lá dùng để chỉ gia đình Thúy Kiều và cuộc sống của họ.

b) Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.


Đoạn thơ sử dụng biện pháp so sánh để miêu tả tiếng đàn của Kiều với: tiếng hạc (trong), tiếng suối mới sa nửa vời (đục), gió thoảng ngoài (khoan), trời đố mưa sầm sập (mau). Đó là những cung bậc khác nhau của tiếng đàn đồng thời cũng là những bậc tình cảm, cảm xúc khác nhau mà Thúy Kiều gửi gắm ở trong đó.

c) Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh 
Một hai nghiêng thước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai.


Đoạn thơ sử dụng biện pháp ẩn dụ (dòng 1) và biện pháp nói quá (dòng 2, 3) để tả vẻ đẹp của nàng Kiều. Đôi mắt Kiều trong như nước mùa thu, lông mày như dáng núi mùa xuân, vẻ đẹp ấy khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hòn và thành trì nghiêng đổ. Kết hợp sử dung điển cố nghiêng nước nghiêng thành, câu thơ đã cho thấy vẻ đẹp toàn diện ở Kiều.

d) Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong gang tấc lại gấp mười quan san


Câu thơ sử dụng biện pháp nói quá để cực tả sự xa cách giữa thân phận và cảnh ngộ của Kiều và Thúc Sinh. Gác Quan Âm - nơi Kiều bị Hoạn Thư bắt ra chép kinh rất gần với nơi đọc sách của Thúc Sinh, cùng ở trong vườn nhà Hoạn Thư, gần nhau trong gang tấc nhưng lại cách trở gấp mười quan san.

e) Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần


Câu thơ sử dụng biện pháp chơi chữ: tài - tai nói về thân phận của những con người tài hoa nhưng bạc mệnh.

3. Phân tích nét nghệ thuật độc đáo trong những câu thơ:

a) Còn trời còn nước còn non 
Còn cô bán rượu anh còn say sưa.


Câu thơ sử dụng biện pháp điệp từ: còn và dùng từ đa nghĩa say sưa (say vì uống rượu, say đắm vì tình). Cách nói đó giúp chàng trai thể hiện tình cảm của mình một cách mạnh mẽ nhưng vẫn kín đáo.

b) Gươm mài đá, đá núi cũng mòn 
Voi uống nước, nước sông phải cạn.

(Nguyễn Trãi)

Câu thơ sử dụng biện pháp nói quá để nói lên sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn.

c) Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa 
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ 
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

(Hồ Chí Minh)

Câu thơ đầu của bài thơ sử dụng biện pháp tu từ so sánh, so sánh tiếng suối chảy trong như tiếng hát, thể hiện sự nhạy cảm của nhà thơ. Điệp từ lồng gợi tả sự gắn bó giao hoà của cảnh vật. Điệp ngữ chưa ngủ nhấn mạnh đến hoạt động của con người. Chưa ngủ một phần vì cảnh đẹp, nhưng điều quan trọng hơn là lo nỗi nước nhà. 

đ) Người ngắm trăng soi ngoài của sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

(Hồ Chí Minh)

Câu thơ thứ hai sử dựng biện pháp nhân hóa: Ánh trăng trở thành người bạn tri âm tri kỉ của nhà thơ.

e) Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi 
Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng.

(Nguyễn Khoa Điềm)

Hình ảnh mặt trời trong câu thứ hai đã được chuyển nghĩa, được tượng trưng hóa. Con là mặt trời của mẹ, là nguồn hạnh phúc ấm áp, thiêng liêng nhưng gần gũi của đời mẹ. Chính con đã góp phần sưởi ấm lòng tin vêu, ý chí của mẹ trong cuộc sống. Mặt tròi con ngày càng lung linh và toả sáng cuộc đời của mẹ và cả thế giới này. 
© Bản quyền thuộc về Bài kiểm tra. Ghi rõ nguồn Bài kiểm tra.com khi sao chép nội dung này.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây